Search

Tuổi trâu hay tuổi bò?

Tìm hiểu mới bi...

  • Share this:

Tuổi trâu hay tuổi bò?

Tìm hiểu mới biết, thực ra ko có tuổi Sửu con Trâu và tuổi Mão con Mèo. Mà, khi du nhập văn hoá từ Tàu vào, vì Việt Nam ko có bò và ko có thỏ, nên mới thay tuổi bò thành trâu và thỏ thành mèo.

Nên, xét về tuổi con vật, thì các bạn tuổi trâu thực ra là tuổi bò.

Lâu nay, hỗ trợ truyền thông cho Trung tâm Việt Thanh sản phẩm An cung trúc hoàn cho người tai biến cứ thắc mắc, vì sao lại dùng sỏi mật bò mà lại gọi là ngưu hoàng, vì ngưu rõ là trâu. Nhưng thực ra ko phải, ngưu là cả bò lẫn trâu, mà sâu xa gốc tích hơn nữa thì nó lại mang ý nghĩa bò nhiều hơn.

Cùng tìm hiểu tí nhỉ?

Ngưu 牛 là tiếng Hán Việt, gần với các cách đọc của miền Nam Trung Quốc như Quảng Đông ngau4. Theo như các vị tiền bối như P. Của trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị (1895) hay Đào Duy Anh, Thiều Chửu (Hán Việt Tự Điển/HVTĐ), Lê Ngọc Trụ, theo Tam Tự Kinh, Việt-Hán Thông Thoại Tự Vị của Ðỗ Văn Ðáp … thì ngưu là trâu.

Từ điển Hoa Việt thông dụng của Khổng Đức và Long Cương (NXB Văn hoá Thông tin – 1996), Trần Văn Chánh (TĐHV, 2005) thì cho ngưu là trâu bò…

Còn theo học giả Nguyễn Văn Khôn (HVTĐ, 1960) ngưu là bò; Nhưng Đào Duy Anh có thêm nhận xét rằng ta nhận lầm ngưu là bò!

Tiếng Trung (Quốc) bây giờ dùng từ kép thuỷ ngưu HV (Hán Việt) 水牛 hay giọng Bắc Kinh (theo bính âm, pinyin) là shui3 niu2 dùng để chỉ con trâu. Còn con bò là mẫu ngưu HV 母牛 hay mu3 niu2 BK. Hoàng ngưu HV 黄牛 và hoả ngưu 火牛 cũng dùng để chỉ loài bò. Con bò đực (bull tiếng Anh, taureau tiếng Pháp) là công ngưu 公牛 hay ngưu 牛. Lựu ngưu 瘤牛 là loại bò có cục bướu (bò u, zebu). Bò Tây Tạng có lông và đuôi rất dài (yak) gọi là mao (ly) ngưu 犛牛. Tê hay con tê giác (rhinoceros) gọi là tê (tây) ngưu (hay tây ngu) 犀牛 có da dầy và sừng mọc ở mũi. Còn loại bò Mỹ nhiều lông (bison) gọi là dã ngưu 野牛 …v.v… Điều này cho thấy ngưu được dùng như một danh từ chỉ chung loại cũng như cá, chim… trong tiếng Việt. Các danh từ chỉ chung này cần thêm chữ để thêm chính xác như cá lóc, cá thu ... chim se sẻ, chim bồ câu ... Thành ra ngưu có thể là bò và cũng có thể là trâu.

Hỏi người bạn Bắc Kinh nghĩa của ngưu thì quả đúng theo nghĩa chung là trâu bò!

Cách dùng mơ hồ của cụm từ Sửu Ngưu

Nghĩa chung của ngưu chỉ trâu bò dẫn đến cách dùng mơ hồ của cụm từ Sửu Ngưu 丑 牛 trong văn hoá Trung Quốc. Mười hai con giáp (sanh tiêu) của TQ thường là từ ghép như Tý Thử 子鼠 , Sửu Ngưu 丑 牛 , Dần Hổ 寅虎 , Mão Thố 卯兔 ... hầu như để nhắc nhở dân Hán nghĩa nguyên thủy của các loài vật tương ứng - điều này khác hẳn với văn hoá ngôn ngữ dân Việt. Người Việt không bao giờ nói ’Sửu Trâu’ cả (vì Sửu chính là tiếng Hán gốc Việt là Trâu), ta thường nói tuổi Sửu hay tuổi (con) trâu. Thêm vào đó là người TQ lại có khuynh hướng dùng bò (ox) thay vì trâu (buffalo, water buffalo) trong Sửu Ngưu 丑 牛thay vì trâu (buffalo, water buffalo) của Việt Nam.

Về ý kiến Trần Quốc Vượng và An Chi

GS Trần Quốc Vượng/TQV có một bài viết về ’Con trâu và nền văn hoá Việt Nam’ in lại trong cuốn ’Văn hoá Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm’ (NXB Văn Học - 2003); Theo thiển ý người viết, dựa vào các dữ kiện phần trên, thì TQV đã không được chính xác cho lắm về sự ’hiểu lầm của các thầy đồ Nho học ... thường dạy học trò ’ngưu là trâu, mã là ngựa ..’, và ông cho ngưu là bò. Học giả An Chi đã đến gần mục tiêu hơn khi cho rằng ngưu chỉ con trâu ngày xưa và nếu đứng một mình thì chỉ con bò.

Ta thấy trong các tranh cổ như Lão Tử kỵ ngưu (老子騎牛) và Thập Mục ngưu đồ (十牧牛圖) đều là hình dáng của loài trâu chứ không phải là loài bò!

Nhưng để ý là trong các món ăn Quảng Đông miền nam TQ (khác nhiều với Bắc Kinh, Thượng Hải ...) thì hủ tiếu thịt bò gọi là ngầu phảnh (ngưu phấn HV) cho thấy cách dùng ngưu là bò - so với ngưu xa HV (xe bò), ngưu nhục (thịt bò, beef/bœuf), ngưu nhũ (sữa bò) ...v.v...

Về ý kiến Lê Ngọc Trụ

Trong vốn từ Hán có các chữ cổ 牯 (bò đực), khẩu (trâu bò) đáng chú ý : tiếng Phạn con bò là गो (go) cùng một gốc proto Ấn-Âu với cow (tiếng Anh) cu (tiếng Anh cổ), go (Mundari) , ko (Đan Mạch), koe (Hà Lan), kuh (Đức), ko (Thuỵ Điển), ko (Frisian/Frysk), kouh (Luxembourh), kau (Maori), bo (Ái Nhĩ Lan)

Có thể cổ là tàn tích giao lưu văn hoá với Ấn Độ từ thời Thượng Cổ cũng như với các dân tộc khác ở phương Nam (tên 12 con giáp chẳng hạn). Cũng theo học giả Lê Ngọc Trụ/LNT trong "Tầm Nguyên Tự Điển Việt Nam" (1993) thì dạng ko गो môi hoá (labialisation) là bo và trở thành bò tiếng Việt, bos (La Tinh) ... so với niu, ngưu (từ gốc ku) : "Đây là những tiếng mượn có nguồn gốc xa ... mà ta không dè ..." (trang 51, sđd). Người viết chỉ ghi nhận ý kiến trên của LNT cho thấy những cách nhìn khác nhau mà thôi, tuy rằng không đồng ý với ông. Tiếng Thái bò có các dạng koh โค và wua วัว (môi hoá âm đầu của *bu hay bò ?) so với trâu là kwaai ควาย , grabèu ควาย ; Giao lưu văn hoá và ngôn ngữ Thái và Hán còn để lại dấu tích trong chữ ngua งัว (so với ngưu HV và các dạng đọc của giọng Hẹ, Quảng Đông đã viết ở trên) : ngua งัว cũng chỉ chung trâu bò.

Vậy tóm lại, tuổi năm nay của các bạn là tuổi bò, còn ngưu là bò hay trâu thì tranh cãi tiếp.

(Bài chiết từ nhiều nguồn)


Tags:

About author
not provided
Nơi nhà báo Phạm Dương Ngọc kể những câu chuyện thú vị của núi rừng...
View all posts